Theo thông tin từ Cục Thuỷ sản, bệnh mờ đục trên ấu trùng tôm (Translucent Post – Larva Disease – TPD) xuất hiện ở các trại sản xuất giống tôm thẻ chân trắng tại Trung Quốc từ khoảng tháng 3 năm 2020, đến nay, bệnh vẫn chưa có biện pháp điều trị. Tác nhân gây bệnh là chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus – loài gây bệnh khác so với Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp đã được công bố trước đây nhưng có độc lực cao hơn.
Thời gian gần đây ở Việt Nam, hiện tượng tôm hậu ấu trùng chết đột ngột và đồng loạt được xác định là bệnh mờ đục hậu ấu trùng (TPD) đang gây hoang mang, lo lắng cho người nuôi tôm trên cả nước.
1. Tác nhân
Theo Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), theo kết quả nghiên cứu của phòng nghiên cứu ShrimpVet trong cuối tháng 8/2023 và đầu tháng 9/2023 tại Việt Nam, đã phân lập được 05 chủng với đặc điểm của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus từ mẫu tôm chết đột ngột nghi ngờ do TPD ở trại giống tại Việt Nam. Các chủng này kiểm tra PCR âm tính với chủng V. parahaemolyticus gây Bệnh hoại tử gan tuỵ cấp tính (Tran L & cs, 2013; Han & cs, 2015), cả năm chủng nghi ngờ gây bệnh TPD đều có độc lực cao hơn so với các chủng Vibrio harveyi (không phát sáng, gây đục cơ), Vibrio parahaemolyticus (không gây EMS/AHPND), và Vibrio parahaemolyticus gây AHPND.
Theo kết luận của phòng nghiên cứu ShrimpVet, các chủng vi khuẩn nghi ngờ là những chủng V. parahaemolyticus mới gây bệnh TPD ở tôm nuôi. Các chủng này có độc lực cao hơn so với các chủng gây AHPND. Các chủng này có thể là một nguồn nguy cơ lớn cho ngành nuôi tôm ở Việt Nam và các nước khác. Cục Thủy sản đang làm việc với nhóm nghiên cứu để sớm có hướng dẫn ngay một số biện pháp phòng ngừa dịch bệnh TPD cho các doanh nghiệp và cơ sở nuôi tôm.
Còn tại Trung Quốc, bệnh TDP đã được ghi nhận những năm gần đây, gây thiệt hại rất lớn cho ngành tôm nước này. Theo nghiên cứu, bệnh này chủ yếu xảy ra ở giai đoạn tôm sau ấu trùng (PL) (Zou & cs, 2020). Tôm bị bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao (gần 100%) với một số dấu hiệu lâm sàng bao gồm ruột rỗng và gan tụy nhợt nhạt hoặc không màu. Vì vậy, một số nhà nghiên cứu đã gọi căn bệnh này là “Hội chứng thủy tinh hóa do vi khuẩn” (BVS) hoặc “Bệnh mờ đục hậu ấu trùng” (TPD).
Đặc điểm
TTCT giai đoạn ấu trùng từ 4 đến 7 ngày tuổi (PL4 -PL7) có khả năng bị nhiễm bệnh cao với mức độ nặng. Thông thường, tỷ lệ mắc bệnh của đàn có thể lên đến 60% vào ngày thứ hai (sau lần đầu tiên quan sát thấy những cá thể bất thường). Trường hợp bệnh ở mức độ nặng, tỷ lệ này có thể lên đến 90 – 100% vào ngày thứ 3.
2. Triệu chứng
Tôm nhiễm bệnh TPD thường xuất hiện các triệu chứng như: gan tuỵ trở nên nhợt nhạt hoặc không màu, đường tiêu hoá trống rỗng, làm cho cơ thể trở nên trong suốt và mờ đi. Ấu trừng bị giảm khả năng bơi lội nên có số lượng lớn các cá thể bị chùm xuống đáy bể nuôi.
Tôm bệnh TPD (biểu thị bằng các mũi tên màu trắng) với gan tuỵ bất thường và hoại tử đường tiêu hoá.
3. Phòng trị bệnh
Hiện nay, bệnh TPD vẫn chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của một số người nuôi tôm ở Trung Quốc cho thấy, việc xử lý nước trong bể nuôi bằng chất diệt khuẩn có thể làm giảm nguy cơ cũng như mức độ của bệnh.
A, D tôm khỏe mạnh, B & E là tôm bị bệnh trong tự nhiên, C&F là tôm trong thử nghiệm gây bệnh. Ảnh từ nghiên cứu FengYang và cộng sự 2021.
Để đề phòng bệnh xuất hiện và lây lan, các cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm giống cần phải xây dựng và triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học; kiểm soát tốt các đường lây của các mầm bệnh từ vi khuẩn như:
– Thực hiện quy trình rửa Nauplius đúng cách trước khi đưa vào bể ương dưỡng;
– Có thể sử dụng các vi sinh vật có lợi có khả năng ức chế sự phát triển của V.parahaemolyticus để bổ sung vào thức ăn hoặc nước nuôi để cải thiện sức khoẻ và khả năng miễn dịch của tôm giống;
– Phải kiểm soát chặt chẽ nguồn thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ và tôm giống;
– Thực hiện nghiêm quy trình khử trùng, diệt khuẩn nước trước khi đưa vào sử dụng; đối với công cụ, dụng cụ, phương tiện vận chuyển, người ra vào trị phải có quy trình vệ sinh, khử trùng tiêu độc, đảm bảo hiệu quả khử trùng (bảo hộ, hố khử trùng, khử trùng định kỳ…);
– Bên cạnh đó, trước khi nhập khẩu tôm giống, tôm bố mẹ từ Trung Quốc cần phải lấy mẫu xét nghiệm đảm bảo tôm không bị bệnh mới nhập khẩu vào Việt Nam; mua tôm giống từ những cơ sở uy tín hoặc đã được xét nghiệm âm tính với các bệnh khác theo quy định về kiểm dịch động vật thuỷ sản.
Đối với các cơ sở nuôi thương phẩm, cấn có các biện pháp quản lý tốt ao nuôi từ khâu cải tạo, chọn lựa con giống chất lượng thả nuôi và quản lý tốt môi trường ao nuôi để phòng bệnh, như: Chọn con giống khoẻ mạnh, đã được kiểm dịch đảm bảo không nhiễm các tác nhân gây bệnh nguy hiểm đặc biệt là không nhiễm vi khuẩn V.parahaemolyticus để thả nuôi; Lấy nước qua hệ thống túi lọc để loại bỏ một số loài vật chủ trung gian truyền bệnh cũng như ngăn chặn các loài thuỷ sản khác xâm nhập vào ao nuôi; Trong quý trình nuôi cần thường xuyên theo dõi và quản lý sức khoẻ tôm nuôi, đo, kiểm tra các thông số môi trường nước ao nuôi để phát hiện và xử lý kịp thời những bất thường xảy ra, đồng thời áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học.
(Bài viết có tham khảo tạp chí Thuỷ Sản)