Sự gia tăng ngoạn mục về sản lượng tôm ở Ecuador trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng kỹ thuật hóa sản xuất ao nuôi, đặt ra câu hỏi về các giới hạn. Giới hạn sản xuất của các ao lớn thường được sử dụng trong nuôi tôm là gì? Có bao nhiêu trang trại có thể được xây dựng và vận hành trong một khu vực cụ thể? Quỹ đạo tăng trưởng bền vững cho ngành tôm là gì? Bài viết dưới đây sẽ đề cập tới những vấn đề trên.
Sức chứa của ao nuôi tôm có thể được định nghĩa là số lượng (hoặc sinh khối) tôm tối đa có thể được duy trì trong ao trong giới hạn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ hệ sinh thái sẵn có mà không gây ra một số thay đổi xấu về chất lượng nước. Khái niệm này ngụ ý rằng một yếu tố giới hạn trong ao áp đặt một số loại sức cản môi trường – thường là lượng oxy hòa tan sẵn có – hạn chế sự gia tăng hơn nữa về số lượng hoặc sinh khối tôm có thể được hỗ trợ. Khả năng chuyên chở có thể được xác định theo mật độ thả tối đa, mật độ sinh khối hoặc tỉ lệ cho ăn hàng ngày.
Quyết định về mật độ nuôi là một trong những nhân tố quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng nước, tăng trưởng, sức khỏe, tỉ lệ sống và năng suất. Một số cân nhắc trong việc lựa chọn một mật độ thả bao gồm sự sẵn có và đặc điểm của cơ sở hạ tầng (ao), sự thay đổi theo mùa, hiệu suất ao trước đây, kinh nghiệm của người nuôi và sức tải của ao. Tăng mật độ nuôi gây áp lực lên môi trường ao nuôi. Khi mật độ nuôi tăng lên, chất lượng môi trường ao nuôi (nước và đất) thay đổi. Ở mật độ thả thấp, chất lượng nước và đất tốt và ở mức an toàn trên ngưỡng tới hạn. Ở một số mật độ thả giống phụ thuộc vào các yếu tố tại địa điểm cụ thể, chất lượng môi trường của ao thay đổi nhanh chóng – đạt đến điểm bùng phát – mức tối đa mà vượt qua đó chất lượng môi trường sẽ nhanh chóng xuống cấp đến mức gây căng thẳng và sản xuất kém hiệu quả.
Các yếu tố căng thẳng, chẳng hạn như nồng độ oxy hòa tan thấp, nồng độ nitrit và sunfua cao, nhiệt độ và biến động pH, có thể gây ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch và do đó, tỷ lệ sống, giảm cảm giác thèm ăn ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và giảm khả năng tiêu hóa thức ăn dẫn đến tăng thức ăn tỷ lệ chuyển đổi, làm giảm năng suất và lợi nhuận chung.
Ở mật độ thả rất thấp, yếu tố chính hạn chế khả năng chuyên chở là sự sẵn có của thức ăn tự nhiên. Trong các ao được cho ăn, yếu tố có khả năng hạn chế khả năng vận chuyển nhất là nồng độ oxy hòa tan. Đặc biệt, thách thức kỹ thuật chính liên quan đến việc cung cấp oxy cho ao nuôi tôm là vận chuyển oxy từ bề mặt, nơi oxy được tạo ra bởi quá trình quang hợp của tảo hoặc bổ sung bằng sục khí cơ học, đến đáy ao nơi tôm thường trú ngụ nhất. Khi mật độ thả nuôi tăng lên, khả năng chứa tăng theo từng bước khi công nghệ và đầu vào từ bên ngoài ao được áp dụng cho đến khi các yếu tố khác ngoài oxy xuất hiện để hạn chế khả năng chứa.
1. Oxy
Nồng độ oxy hòa tan đã được chứng minh nhiều lần, là yếu tố chính hạn chế sản lượng tôm trong ao bán thâm canh và thâm canh. Tốc độ hô hấp tối đa của tôm – một chỉ số về khả năng tăng trưởng – tối đa là khoảng 6 mg/L.
Bảng 1. Sức chứa của ao từ 5 đến 10 ha trong các điều kiện khác nhau
Năng suất | Mật độ thả (PL/m2) | Sục khí (hp/ha) | Chú thích |
900 | 10 – 15 | 0 | Ao năng suất bình thường |
1,100-1,300 | 10 – 15 | 0 | Ao năng suất tối ưu nhất |
1,600- 2,000 | 15 | 2 – 4 | Trung bình ở Ecuador |
3,000 | Giới hạn tối đa G1 (McIntosh) | ||
2,500 – 4,000 | 20 – 25 | 2 – 4 | Tốt nhất ở Ecuador |
3,500 | 30 – 35 | 2 – 6 | Tốt nhất ở Brazil |
4,000 – 4,500 | 17 – 20 | 4 | Sục khí liên tục |
4,000- 5,000 | 25 – 30 | 5 – 6 | Sục khí liên tục |
6,000- 6,400 | >25 | 10 | Sục khí liên tục |
Do đó, ở bất kỳ nồng độ oxy hòa tan nào thấp hơn mức tối đa này, tiềm năng tăng trưởng của tôm đều giảm tương ứng do tôm thích nghi với mức oxy hòa tan thấp hơn bằng cách giảm tốc độ hô hấp. Vì lý do này, nhiều nhà sản xuất tôm ở châu Á cung cấp sục khí cơ học ở mức độ cao để duy trì nồng độ oxy hòa tan ở mức cao liên tục. Trong các ao nuôi tôm bị phú dưỡng, nồng độ oxy hòa tan dao động lớn giữa ngày và đêm để đáp ứng với quá trình quang hợp và hô hấp của tảo bởi tất cả các quần thể sinh vật trong ao. Các điều kiện biến động đóng vai trò là yếu tố gây căng thẳng cho tôm, cuối cùng làm giảm tỷ lệ sống. Chất lượng nước ổn định với nồng độ oxy hòa tan khoảng 5-6 mg/L là mong muốn để tối đa hóa tiềm năng tăng trưởng và sử dụng thức ăn hiệu quả.
2. Kích thước ao
Quyết định xây dựng các ao lớn (5 đến 10 ha) rất phổ biến ở Ecuador là một quyết định hợp lý dựa trên về chi phí xây dựng. Chi phí xây dựng lớn ao/ha ít hơn so với ao nhỏ. Các tỷ lệ diện tích mặt nước so với diện tích đất chiếm cũng lớn hơn với ao lớn. Một trong những sự đánh đổi liên quan đến việc sử dụng ao lớn là sự hy sinh trong mức độ kiểm soát quản lý đối với chất lượng nước và các khía cạnh khác của sản xuất, dẫn đến giảm chi phí vận chuyển công suất so với ao nhỏ hơn
Ao tôm lớn “bình thường” thả 10-15 con/m2 không có sục khí có khả năng chứa khoảng 680-1.150 kg/ha. Thông qua việc bổ sung sục khí ở mức 2-4 mã lực/ha, sức chứa có thể đạt 1.600- 3.200 kg/ha. Tăng mật độ nuôi lên khoảng 25/m2 , với sục khí 2-4 hp/ha và khác các bộ phận của công nghệ hóa (ao ương, tự động người cho ăn, di truyền cải tiến, thức ăn chất lượng cao), có thể dẫn đến sức chứa của ao là 2.500-4.000 kg/ha. Giới hạn trên đối với các ao lớn thả giống ở mức 25-30/m2 có lẽ là khoảng 4.500 kg/ha, nhưng điều này đòi hỏi phải sục khí liên tục ở mức 5-6 mã lực/ha và tỷ lệ trao đổi nước khoảng 10-20% mỗi ngày trong phần cuối cùng của chu kỳ tăng trưởng. Đó là kỹ thuật có thể đạt được khả năng chuyên chở 6.000-6.500 kg/ha với sục khí liên tục ở 10 mã lực/ha nhưng hiệu quả của mức sản xuất này là đáng nghi ngờ. Các giá trị trong Bảng 1 thể hiện kết quả thực nghiệm thu được trong điều kiện thực tế về thương mại trang trại nuôi tôm.
Đối với mức năng suất 4.500-7.000 kg/ha thì tốt hơn đầu tư sửa đổi cơ sở hạ tầng ao nuôi để giảm ao nuôi cỡ 1-2 ha. Năng suất trung bình ở các nước sản xuất tôm lớn như – Ấn Độ (3.450 kg/ha), Việt Nam (5.580 kg/ha), Thái Lan (6.350 kg/ha) và Indonesia (10.000 kg/ha) – thu được từ các ao thường.
Trong các ao có diện tích từ 5 đến 10 ha có máy cho ăn tự động, có thể được hình thành như một ao nuôi thâm canh kết hợp với các khu vực cho ăn nhỏ. Khả năng chuyên chở có thể tăng lên vì tần suất cho ăn cao có nghĩa là tải lượng chất thải được phân phối ở mức thấp hơn nhưng trong một thời gian dài hơn trong ngày, cho phép các quá trình ao tự nhiên theo kịp với tải chất thải. Trong ao có máy tự động máy cấp liệu, cung cấp oxy hòa tan cho vùng cấp liệu có khả năng là yếu tố hạn chế và vì vậy số lượng, định vị và vận hành sục khí cơ học các thiết bị là yếu tố quan trọng.
Về sự thay đổi liên quan đến việc lựa chọn của kích thước ao, yếu tố quan tâm chính là xây dựng các ao lớn với chi phí thấp hơn, đặc biệt là những ao có lớp lót, kiểm soát tốt chất lượng nước, đặc biệt là sục khí, nồng độ oxy hòa tan 5-6 mg/L có thể được duy trì liên tục, tối đa hóa tiềm năng tăng trưởng và giảm thiểu căng thẳng. Tuy nhiên, mật độ nuôi cao có nghĩa là tỷ lệ cho ăn cao. Quản lý lượng chất thải được tạo ra bằng cách cho ăn theo từng khu vực nhỏ trong ao. Giữ đáy ao sạch sẽ, nồng độ chất hữu cơ thấp, là một vấn đề quan trọng giúp hạn chế cơ hội phát sinh mầm bệnh như Vibrio.
Nhìn xa hơn ở mức độ một khu vực nuôi, khái niệm công suất có thể được mở rộng để ước tính tối đa số lượng trang trại trong một khu vực cụ thể, xem xét tác động tích lũy của nhiều trang trại trong cùng một khu vực. Điều này đặc biệt đúng ở những khu vực có nhiều trang trại lấy nước và xả nước từ cùng một nguồn. Điều này có thể khiến chất lượng nước phục vụ các trang có thể suy yếu, với mật độ dày đặc của thực vật phù du và nồng độ oxy hòa tan thấp. Tuần hoàn nội bộ cấp trang trại là một lựa chọn tốt hơn trong trường hợp này. Thay nước chỉ có thể có lợi nếu chất lượng nước ở vùng cửa sông tốt hơn chất lượng nước bên trong trại nuôi tôm.
(Bài viết có tham khảo tại Tạp Chí Người Nuôi Tôm)